SA SÚT TRÍ TUỆ VÀ CƠ HỘI PHÒNG BỆNH
Sa sút trí tuệ là tình trạng chức năng não bộ suy giảm vượt mức những hậu quả do quá trình lão hóa của cơ thể gây ra, gây ảnh hưởng đến những hoạt động sinh hoạt hàng ngày của cá nhân1. Tình trạng này có thể xuất hiện sớm hoặc muộn tùy từng người mà không phải chỉ do tuổi tác quyết định.
Các dấu hiệu của bệnh bao gồm:
- Quên những chuyện, sự kiện gần đây
- Mất hoặc quên vị trí để đồ vật
- Lạc đường, lạc trong những không gian quen thuộc như nhà mình
- Mất khả năng nhận biết thời gian (nhầm lẫn về thời gian)
- Khó khăn để giải quyết vấn đề hoặc ra quyết định
- Khó khăn trong việc tìm từ để diễn đạt hoặc gặp vấn đề trong việc theo dõi hay tham gia trò chuyện
- Khó khăn trong việc thực hiện các công việc hàng ngày trong gia đình như nấu cơm, giặt quần áo
- Đánh giá sai tầm nhìn đến vật khiến cho người bệnh có thể va vào đồ vật, vấp ngã và ngã.
Các thay đổi thường gặp trong tâm trạng và hành vi:
- Cảm thấy lo lắng, buồn hoặc tức giận về việc mất trí nhớ.
- Thay đổi tính cách có thể hay cáu kỉnh
- Hành vi không phù hợp như lặp đi lặp lại một hành động, lời nói hoặc thói quen
Ngoài ra, người bệnh thường giảm tham gia các hoạt động xã hội và công việc, giảm hứng thú với những cảm xúc của người khác
Hầu hết các triệu chứng của bệnh đều nặng dần lên qua thời gian. Theo tiến triển của bệnh, sự hỗ trợ trong chăm sóc cá nhân ngày càng tăng lên. Người mắc sa sút trí tuệ có thể sẽ không nhận ra người thân trong gia đình, bạn bè và khó khăn trong việc di chuyển, mất kiểm soát về đại tiểu tiện, gặp vấn đề trong ăn uống và có nhưng thay đổi trong hành vi như là sự hung hăng làm, có thể làm đau chính họ hoặc những người xung quanh.
- Tại sao mắc sa sút trí tuệ?
Sa sút trí tuệ có nhiều thể bệnh khác nhau nhưng nhìn chung đều có sự phá hủy các tế bào thần kinh và não bộ. Alzheimer là thể bệnh thường gặp nhất, chiếm tới 60 – 70% các ca bệnh. Các thể khác bao gồm sa sút trí tuệ thể mạch máu hoặc sa sút trí tuệ thể Lewy Dementia (sự lắng đọng bất thường của các protein trong các tế bào thần kinh), và một nhóm bệnh tạo nên thể sa sút trí tuệ thùy trán – thái dương (thoái hóa thùy trán và thùy thái dương của não). Sa sút trí tuệ có thể cũng xảy ra sau đột quỵ hoặc trong trường hợp mắc một số bệnh nhiễm trùng như là HIV, hoặc hậu quả của việc uống rượu quá mức, chấn thương thực thể tại não lặp đi lặp lại (được gọi là bệnh chấn thương não mãn tính) hoặc do thiếu hụt dinh dưỡng. Ranh giới giữa các thể không rõ ràng và có thể phối hợp các thể với nhau.
Tỉ lệ người mắc sa sút trí tuệ đang gia tăng một cách nhanh chóng đặc biệt là tại các nước đang phát triển như Việt Nam. Theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới (WHO), năm 2019 có khoảng 55 triệu người mắc sa sút trí tuệ trên toàn thế giới, trong đó 60% các ca mắc sống tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Mỗi năm có thêm khoảng 10 triệu người mắc sa sút trí tuệ và dự kiến đến năm 2050, số người mắc sa sút trí tuệ trên toàn thế giới là 139 triệu người2. Tại Việt Nam, các dữ liệu về sa sút trí tuệ còn khá hạn chế. Thống kê năm 2015 cho thấy có khoảng 660000 người mắc sa sút trí tuệ3.
Chi phí cho các bệnh nhân sa sút trí tuệ là rất lớn. Năm 2019, ước tính tổng chi phí cho người mắc sa sút trí tuệ trên toàn cầu là hơn 1,3 nghìn tỉ đô, con số này ước tính sẽ đạt mức 2,8 nghìn tỉ đô năm vào 20302. Chi này có thể thay đổi ở từng quốc gia khác nhau, cao hơn ở các nước thu nhập cao và thấp hơn ở các nước có thu nhập trung bình và thấp. tại các nước thu nhập cao, Chi phí trung bình cho mỗi bệnh nhân dao động từ 16000 đô cho người mắc sa sút trí tuệ nhẹ tới 36000 đô cho người mắc sa sút trí tuệ nặng. Tại Việt Nam, chi phí cho 660000 người mắc sa sút trí tuệ năm 2015 là 960 triệu đô, tương đương chi phí trung bình ước tính là 1500 đô/ người3.
Bên cạnh những gánh nặng về kinh tế cho gia đình và xã hội, sa sút trí tuệ còn gây ảnh hưởng lớn về tinh thần người bệnh và người chăm sóc do sự thay đổi về hành vi và sự phụ thuộc chăm sóc cao với trung bình hơn 5 giờ mỗi ngày. Con số này sẽ càng tăng lên ở các nước có thu nhập thấp và trung bình do tính chất văn hóa và kinh tế mà người thân trong gia đình, đặc biệt là phụ nữ sẽ tham gia nhiều hơn vào sự chăm sóc này.
Điều trị sa sút trí tuệ còn có nhiều khó khăn. Hiện nay, trên thế giới có 4 thuốc điều trị sa sút trí tuệ đang được lưu hành trên thị trường tuy nhiên các thuốc này chỉ có tác dụng làm giảm triệu chứng mà không thay đổi bệnh. Bên cạnh đó giá thành thuốc điều trị là cao và có những tác dụng phụ đi kèm. Các nhóm thuốc mới đang tiếp tục được nghiên cứu và thử nghiệm, nhưng giá thành dự kiến cũng rất cao4. Việc dự phòng cũng như chẩn đoán sớm và điều trị sớm bằng các can thiệp không dùng thuốc đang là xu hướng, chiến lược quan trọng để đối mặt với tình trạng sa sút trí tuệ trên toàn thế giới.
Việc thiếu nhận thức và hiểu biết về bệnh dẫn tới sự kì thị và rào cản trong việc chẩn đoán và chăm sóc bệnh nhân sa sút trí tuệ. Hiện tại , con số bệnh nhân sa sút trí tuệ chưa được chẩn đoán trên thế giới lên tới 75% ở các nước thu nhập cao và thậm chí là 90% tại các nước thu nhập thấp5.
Đứng trước những thách thức trong việc chẩn đoán, chăm sóc, điều trị bệnh nhân mắc sa sút trí tuệ, việc phòng bệnh trở thành nhu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết. Xem xét các nguy cơ của sa sút trí tuệ thấy rằng, mặc dù tuổi tác được biết đến là yếu tố nguy cơ mạnh nhất của sa sút trí tuệ nhưng sa sút trí tuệ không phải là hậu quả tất yếu của quá trình lão hóa sinh học. Ngược lại, sa sút trí tuệ không phải chỉ xuất hiện ở người cao tuổi, nhóm sa sút trí tuệ khởi phát sớm (xuất hiện trước 65 tuổi) chiếm khoảng 9% các trường hợp1.
Gen và yếu tố gia đình cũng là một trong những yếu tố nguy cơ của sa sút trí tuệ. Những trường hợp mang gen Apoli protein e4 và gia đình có người mắc sa sút trí tuệ trước đó có nguy cơ mắc sa sút trí tuệ cao hơn những người khác1.
Tổ chức Y tế thế giới và Ủy ban thường trực Lancet (tạp chí về y khoa được đánh giá là tốt nhất thế giới) có sự đồng thuận cao giữa các chuyên gia của về việc thay đổi các yếu tố nguy cơ giúp cải thiện tình trạng mắc suy giảm nhận thức cũng như sa sút trí tuệ6,7. Vai trò của việc cải thiện các yếu tố nguy cơ thay đổi được ngày càng được nhấn mạnh qua các báo cáo của Ủy ban thường trực Lancet qua các năm 2017, 2020 và 2024. Trong báo cáo mới nhất của mình năm 2024, Lancet đã nêu rõ bằng cách cải thiện 14 yếu tố nguy cơ thay đổi được bao gồm: 1) tăng cường các hoạt động của não bộ như suy nghĩ, phán đoán, ghi nhớ, xử lý thông tin; (2) kiểm soát tình trạng tăng huyết áp; (3) kiểm soát đái tháo đường; (4) kiểm soát tình trạng rối loạn lipid máu; (5) phòng tránh tình trạng chấn thương sọ não; (6) cải thiện và phòng tránh tình trạng trầm cảm; (7) cải thiện tình trạng béo phì; (8) bỏ hút thuốc lá; (9) giảm uống rượu bia; (10) cải thiện tình trạng suy giảm thính lực; (11) cải thiện tình trạng suy giảm thị lực; (12) cải thiện tình trạng cô lập xã hội; (13) giảm tiếp xúc với không khí bị ô nhiễm; (14) tăng cường hoạt động thể lực có thể giúp làm giảm gần một nửa các trường hợp mắc sa sút trí tuệ ngay cả với những người có mang gen Apoli e47. Việc phòng bệnh cần được thực hiện càng sớm càng tốt và duy trì trong suốt cuộc đời.
Tài liệu tham khảo:
1. Dementia. Accessed February 3, 2025. https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/dementia
2. World Health Organization. Global Status Report on the Public Health Response to Dementia.; 2021.
3. Nguyen T, Dang H. Strengthening responses to dementia: Building an evidence platform for the development of Vietnam’s National Dementia Plan. Alzheimer’s & Dementia. 2025;20. doi:10.1002/alz.086502
4. World Health Organization. A Blueprint for Dementia Research.; 2021.
5. Serge Gauthier, Pedro Rosa-Neto, José A. Morais, Claire Webster. World Alzheimer Report 2021 Abridged version Journey through the diagnosis of dementia. https://www.alzint.org/u/Abridged-World-Alzheimer-Report-2021_Jan2022.pdf
6. World Health Organization. Risk Reduction of Cognitive Decline and Dementia: WHO Guidelines. World Health Organization; 2019. Accessed November 5, 2024. https://iris.who.int/handle/10665/312180
7. Livingston G, Huntley J, Liu KY, et al. Dementia prevention, intervention, and care: 2024 report of the Lancet standing Commission. The Lancet. 2024;404(10452):572-628. doi:10.1016/S0140-6736(24)01296-0
Câu hỏi đố vui:
- Sa sút trí tuệ là tình trạng suy giảm chức năng của não bộ tương đương với quá trình lão hóa của cơ thể, không gây ảnh hưởng đến những hoạt động sinh hoạt hàng ngày của cá nhân. Đ/S
- Sa sút trí tuệ là tình trạng suy giảm chức năng của não bộ vượt mức những hậu quả do quá trình lão hóa của cơ thể gây ra, gây ảnh hưởng đến những hoạt động sinh hoạt hàng ngày của cá nhân. Đ/S
- Các dấu hiệu nào dưới đây là biểu hiện của sa sút trí tuệ?
3.1. Quên những chuyện, sự kiện gần đây Đ/S
3.2. Mất hoặc quên vị trí để đồ vật Đ/S
- Lạc đường, lạc trong những không gian quen thuộc như nhà mình Đ/S
- Mất khả năng nhận biết thời gian (nhầm lẫn về thời gian) Đ/S
- Khó khăn để giải quyết vấn đề hoặc ra quyết định Đ/S
- Khó khăn trong việc tìm từ để diễn đạt hoặc gặp vấn đề trong việc hiểu được nội dung hay tham gia cuộc trò chuyện. Đ/S
- Khó khăn trong việc thực hiện các công việc hàng ngày trong gia đình như nấu cơm, giặt quần áo Đ/S
- Đánh giá sai tầm nhìn đến vật khiến cho người bệnh có thể va vào đồ vật, vấp ngã và ngã. Đ/S
- Cảm thấy lo lắng, buồn hoặc tức giận về việc mất trí nhớ. Đ/S
- Thay đổi tính cách có thể hay cáu kỉnh Đ/S
- Hành vi không phù hợp như lặp đi lặp lại một hành động, lời nói hoặc thói quen Đ/S
- Quên những chuyện trước đây Đ/S
- Lạc đường ở nơi xa lạ Đ/S
- Làm việc quên thời gian Đ/S
- Diễn đạt bị vấp, lắp Đ/S
- Không biết sử dụng các máy móc công nghệ cao Đ/S
- Cáu kỉnh vì con cái hư Đ/S
- Ngã do đi vào khu vực tối khi nhà mất điện Đ/S
- Sa sút trí tuệ tiến triển nặng dần theo thời gian Đ/S
- Sa sút trí tuệ có thể tự khỏi không cần điều trị Đ/S
- Sa sút trí tuệ do tổn thương các tế bào não gây ra Đ/S
- Sa sút trí tuệ do lắng đọng các chất bất thường trong các tế bào thần kinh Đ/S
- Sa sút trí tuệ do thoái hóa các vùng não Đ/S
- Số người mắc sa sút trí tuệ đang gia tăng một cách nhanh chóng Đ/S
- Số người mắc sa sút trí tuệ ngày một giảm đi Đ/S
- Tỉ lệ người mắc sa sút trí tuệ được chẩn đoán ở Việt Nam chiếm tỉ lệ cao Đ/S
- Chi phí cho điều trị sa sút trí tuệ là không đáng kể Đ/S
- Chi phí cho điều trị sa sút trí tuệ là rất lớn Đ/S
- Hiện nay không có thuốc điều trị khỏi sa sút trí tuệ Đ/S
- Người bị mắc sa sút dần có thể trở lên phụ thuộc chăm sóc Đ/S
- Người mắc sa sút trí tuệ hoàn toàn không cần hỗ trợ hàng ngày Đ/S
- Bệnh sa sút trí tuệ không thể phòng được Đ/S
- Chắc chắc các trường hợp mang gen Apoli protein e4 sẽ mắc bệnh sa sút trí tuệ Đ/S
- Thay đổi các yếu tố nguy cơ thay đổi được giúp làm giảm gần một nửa các trường hợp mắc bệnh ngay cả những trường hợp có mang gen gây bệnh Đ/S